Lịch sử Châu_Đại_Dương

Úc

Một bản khắc từ thế kỷ XIX miêu tả thổ dân Úc cắm trại.

Thổ dân Úc là các cư dân đầu tiên tại lục địa Úc và các đảo lân cận, họ di cư từ châu Phi đến châu Á vào khoảng 70.000 năm trước[17] và đến Úc vào khoảng 50.000 năm trước.[18] Họ được cho là thuộc các đợt di cư sớm nhất của loài người ra ngoài châu Phi.[19] Mặc dù có vẻ là họ di cư đến Úc qua Đông Nam Á, song họ rõ ràng không có liên hệ với các cư dân châu Á hoặc Polynesia.[20] Có bằng chứng về trao đổi di truyền học và ngôn ngữ học giữa thổ dân Úc tại cực bắc với các dân tộc Nam Đảo tại New Guinea và các quần đảo, song có thể là kết quả từ giao thương và liên hôn gần đây.[21]

Họ đến Tasmania khoảng 40.000 năm trước bằng cách di cư qua một cầu lục địa tồn tại trong kỷ băng hà cuối.[22] Người ta cho rằng cuộc di cư đầu tiên đến Úc được tiến hành khi đại lục tạo thành một phần của lục địa Sahul, nối với đảo New Guinea qua một cầu lục địa.[23] Cư dân Quần đảo Eo biển Torres là người bản địa tại các đảo trên eo biển Torres, nằm ngoài khơi mũi cực bắc của Queensland và gần Papua New Guinea.[24] Di cốt con người sớm nhất xác định được tại Úc là của người Mungo, có niên đại khoảng 40.000 năm.[25]

Melanesia

Phân bổ người Melanesia

Những cư dân đầu tiên của nhóm đảo Melanesia có vẻ là tổ tiên của người nói tiếng Papua hiện nay. Họ di cư từ Đông Nam Á, có vẻ đã chiếm giữ xa về cực đông đến các đảo chính của quần đảo Solomon, bao gồm đảo Makira và có thể là đến các đảo nhỏ xa hơn nữa về phía đông.[26]

Người Austronesia sống dọc bờ biển phía bắc và các đảo về phía bắc và phía đông của New Guinea, họ di cư đến khu vực vào khoảng 3.000 năm trước, có tiếp xúc với các dân tộc nói tiếng Papua hiện diện từ trước. Đến cuối thế kỷ XX, một số học giả đặt ra giả thuyết về một giai đoạn tương tác lâu dài, dẫn đến nhiều biến đổi phức tạp về di truyền, ngôn ngữ và văn hoá trong các dân tộc.[27]

Polynesia

Moai tại Ahu Tongariki trên Rapa Nui (đảo Phục sinh)

Người Polynesia về mặt ngôn ngữ, khảo cổ và nguồn gốc di truyền được nhìn nhận là một phân nhóm của người Austronesia di cư bằng đường biển, và các ngôn ngữ Polynesia của họ có nguồn gốc tiền sử tại quần đảo Mã Lai, và xa hơn nữa là Đài Loan. Từ khoảng 3000 đến 1000 TCN, những người nói các ngôn ngữ Austronesia bắt đầu di cư đến Đông Nam Á hải đảo,[28][29][30].

Hồ sơ khảo cổ học có dấu tích rõ ràng về sự bành trướng này, cho phép xác định chính xác phần nào tuyến đường mà họ đi theo và mốc thời gian. Người ta cho là vào khoảng 1400 TCN,[31] "người Lapita" xuất hiện tại quần đảo Bismarck tại tây bắc Melanesia.[32][33]

Cư dân đảo Phục sinh cho rằng một tù trưởng tên là Hotu Matu'a[34] đến đảo trên một hoặc hai xuồng lớn cùng vợ và đại gia đình.[35] Họ được cho là người Polynesia. Tài liệu xuất bản cho rằng con người định cư trên đảo vào khoảng 300–400, hoặc vào khoảng thời gian những người định cư đầu tiên đến Hawaii. Khoảng 1200, các nhà thám hiểm người Tahiti phát hiện và bắt đầu định cư tại khu vực. Mốc thời gian này thay đổi dựa trên tính toán niên đại ngôn ngữ và vào ba mốc cacbon phóng xạ từ than củi được cho là hình thành từ hoạt động phát quang rừng.[36] Tuy vậy, một nghiên cứu gần đây bao gồm các niên đại phóng xạ được cho thấy rằng đảo có người định cư gần đây khoảng năm 1200.[37]

Micronesia

Chuyên chở tiền đá đến đảo Yap tại Micronesia (1880).

Micronesia bắt đầu có người định cư từ vài thiên niên kỷ trước, song có các thuyết khác nhau về nguồn gốc và thời điểm có những người định cư ban đầu. Tồn tại một số khó khăn trong tiến hành khai quật khảo cổ học trên các đảo, do kích thước, mô hình định cư và thiệt hại do bão. Do đó, phần lớn bằng chứng dựa trên phân tích ngôn ngữ.[38]

Dấu tích khảo cổ học sớm nhất về nền văn minh được phát hiện trên đảo Saipan, có niên đại khoảng 1500 TCN hoặc không lâu trước đó. Tổ tiên của người Micronesia định cư tại đó 4.000 năm trước. Một hệ thống phân quyền dựa trên các tù trưởng cuối cùng tiến hoá thành một nền văn hoá kinh tế và tôn giáo tập trung hơn trên đảo YapPohnpei.[39] Thời tiền sử của nhiều hòn đảo Micronesia như Yap không được biết nhiều.[40]

Cư dân đầu tiên của Quần đảo Bắc Mariana đến từ Đông Nam Á vào khoảng từ 4000 TCN đến 2000 TCN. Họ được gọi là người Chamorro, và nói một ngôn ngữ Austronesia gọi là Chamorro. Người Chamorro cổ đại để lại một số tàn tích cự thạch, như đá Latte. Refaluwasch, hay người Caroline đến quần đảo Mariana trong thế kỷ XIX từ quần đảo Caroline. Các di dân Micronesia dần định cư tại quần đảo Marshall vào thiên niên kỷ thứ 2, khi họ có thể qua lại giữa các đảo dựa vào biểu đồ xếp từ que truyền thống.[41]

Người châu Âu thám hiểm

Từ năm 1527 đến năm 1595, một số đoàn thám hiểm lớn của Tây Ban Nha vượt qua Đại Tây Dương, kết quả là khám phá quần đảo MarshallPalau tại Bắc Thái Bình Dương, cùng với Tuvalu, Marquesas, quần đảo Solomon, quần đảo Cookquần đảo Admiralty tại Nam Thái Bình Dương.[42]

Trong quá trình tìm kiếm lục địa giả tưởng Terra Australis, các nhà thám hiểm Tây Ban Nha vào thế kỷ XVII, như đoàn thám hiểm của Pedro Fernandes de Queirós, khám phá các quần đảo PitcairnVanuatu, và đến eo biển Torres nằm giữa Úc và New Guinea, đặt tên nó theo nhà hàng hải Luís Vaz de Torres. Willem Janszoon là người châu Âu đầu tiên được chứng minh trọn ven là đặt chân đến Úc (1606), tại bán đảo Cape York.[43] Abel Janszoon Tasman đi vòng quanh thế giới và đổ bộ nhiều nơi trên bờ biển lục địa Úc, và khám phá Đất Van Diemen (nay là Tasmania), New Zealand vào năm 1642, và quần đảo Fiji.[44] Ông là nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên được ghi nhận là tới các đảo này.[45]

Ngày 23 tháng 4 năm 1770, nhà thám hiểm người Anh James Cook tiến hành ghi chép đầu tiên về quan sát trực tiếp thổ dân Úc trên đảo Brush gần Bawley Point.[46] Ngày 29 tháng 4, Cook và thuỷ thủ tiến hành cuộc đổ bộ đầu tiên tại đại lục. Tại đó, James Cook có tiếp xúc lần đầu với một bộ lạc thổ dân gọi là Gweagal. Chuyến thám hiểm của ông là lần đầu tiên người châu Âu được ghi nhận là đã đến bờ biển phía đông của Úc.[47]

Thuộc địa hoá

New Guinea từ năm 1884 đến năm 1919. Người Hà Lan kiểm soát nửa phía tây của New Guinea, Đức kiểm soát phần đông bắc, và Anh kiểm soát phần đông nam.

Năm 1789, cuộc nổi loạn trên tàu Bounty chống lại William Bligh có kết quả là một số người binh biến đã đào ngũ Hải quân Hoàng gia Anh và định cư tại quần đảo Pitcairn, về sau nơi này trở thành một thuộc địa của Anh. Anh cũng lập các thuộc địa tại Úc vào năm 1788, New Zealand vào năm 1840 và Fiji vào năm 1872, phần lớn châu Đại Dương trở thành bộ phận của Đế quốc Anh. Quần đảo Gilbert (nay là Kiribati) và quần đảo Ellice (nay là Tuvalu) nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Anh vào cuối thế kỷ XIX.[48][49]

Các nhà truyền giáo Công giáo người Pháp đến Tahiti vào năm 1834; việc họ bị trục xuất vào năm 1836 khiến Pháp cử một pháo hạm đến vào năm 1838. Năm 1842, Tahiti và Tahuata được tuyên bố là lãnh thổ bảo hộ của Pháp, nhằm để cho các nhà truyền giáo hoạt động mà không bị phá rối. Thủ phủ Papeetē được thành lập vào năm 1843.[50] Ngày 24 tháng 9 năm 1853, theo lệnh của Napoleon III, Đô đốc Febvrier Despointes chính thức chiếm hữu Nouvelle-CalédoniePort-de-France (Nouméa) được thành lập vào ngày 25 tháng 6 năm 1854.[51]

Nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Alonso de Salazar đổ bộ lên quần đảo Marshall vào năm 1529. Quần đảo về sau được đặt tên theo nhà thám hiểm người Anh John Marshall, là người đến quần đảo cùng với Thomas Gilbert vào năm 1788. Năm 1905, chính phủ Anh chuyển giao một số trách nhiệm hành chính đối với phần đông nam New Guinea cho Úc (đổi tên thành "Lãnh thổ Papua"); và đến năm 1906, chuyển giao toàn bộ trách nhiệm còn lại cho Úc. Tây Ban Nha yêu sách quần đảo Marshall vào năm 1874. Đức lập thuộc địa tại New Guinea vào năm 1884, và tại Samoa vào năm 1900. Hoa Kỳ cũng bành trướng đến Thái Bình Dương, bắt đầu từ đảo Bakerđảo Howland vào năm 1857, còn Hawaii trở thành một lãnh thổ của Hoa Kỳ vào năm 1898. Bất đồng giữa Hoa Kỳ, Đức và Anh về Samoa dẫn đến Hiệp ước ba bên vào năm 1899.[52]

Lịch sử hiện đại

Binh sĩ New Zealand đổ bộ tại Vella Lavella, Quần đảo Solomon

Một trong các cuộc tấn công quy mô lớn trên bộ đầu tiên tại châu Đại Dương là sự kiện New Zealand chiếm đóng Samoa thuộc Đức vào tháng 8 năm 1914. Quân đội Úc tấn công New Guinea thuộc Đức vào tháng 9 năm 1914, kết quả là người Đức đầu hàng.[53]

Quân đội Nhật Bản tấn công căn cứ hải quân Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941,[54][55]. Cuộc tấn công khiến Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhật Bản sau đó xâm chiếm New Guinea, quần đảo Solomon và các đảo khác tại Thái Bình Dương. Bước ngoặt trên mặt trận này là trận chiến biển Coral và chiến dịch đường Kokoda tại Papua, và người Nhật cuối cùng thất bại vào năm 1945. Một số trận chiến nổi bật khác trên mặt trận châu Đại Dương là trận Bita Paka, chiến dịch quần đảo Solomon, oanh tạc Darwin.[56][57] Hoa Kỳ chiến đấu giành lại Guam từ 21 tháng 7 đến 10 tháng 8 năm 1944.[58]

Úc và New Zealand trở thành các quốc gia tự trị vào thế kỷ XX, lần lượt thông qua Đạo luật Quy chế Westminster vào năm 1942 và 1947. Năm 1946, người Polynesia được cấp quyền công dân Pháp và vị thế của quần đảo được chuyển thành một lãnh thổ hải ngoại; tên của quần đảo được đổi thành Polynésie Française (Polynésie thuộc Pháp) vào năm 1957. Hawaii trở thành một tiểu bang Hoa Kỳ vào năm 1959. FijiTonga độc lập vào năm 1970. Ngày 1 tháng 5 năm 1979, Hoa Kỳ công nhận hiến pháp của Quần đảo Marshall và thành lập Chính phủ Cộng hoà Quần đảo Marshall. Diễn đàn Nam Thái Bình Dương được thành lập vào năm 1971, đổi tên thành Diễn đàn Quần đảo Thái Bình Dương vào năm 2000.[53]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Châu_Đại_Dương http://www.atkearney.com.au/documents/10192/dfedfc... http://www.australiangeographic.com.au/journal/lan... http://www.australiangeographic.com.au/topics/feat... http://profile.id.com.au/sydney/population http://www.mercer.com.au/newsroom/mercer-2014-qual... http://www.miningfm.com.au/mining-towns/overseas/p... http://www.sbs.com.au/food/cuisineindex/RecipeByCu... http://www.sbs.com.au/yourlanguage/italian/en/arti... http://www.smh.com.au/articles/2002/11/10/10363085... http://www.smh.com.au/data-point/sydney-languages